Chị Nguyễn Thị T (TP.HCM) hỏi: “Con trai tôi có đánh nhau với người khác và gây tỉ lệ thương tật cho người đó 36%. Sau đó, gia đình họ đã kiện con trai tôi dù tôi đã cố gắng thuyết phục. Sau đó, tôi cũng đã bỏ ra một số tiền lớn để bồi thường, khắc phục hậu quả thì phía gia đình họ đã làm đơn bãi nại. Tôi nghe một số người nói rằng do người bị nạn có tỉ lệ thương tật nhiều nên dù họ có bãi nại, con trai tôi vẫn bị khởi tố và truy cứu trách nhiệm hình sự. Xin hỏi trong trường này con trai tôi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?”
Tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021 có quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:
Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Theo đó, không phải tất cả các trường hợp có giấy bãi nại sẽ không khởi tố vụ án hình sự.
Việc không khởi tố vụ án hình sự khi có giấy bãi nại chỉ khi thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của các tội:
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
– Tội hiếp dâm;
– Tội cưỡng dâm;
– Tội làm nhục người khác;
– Tội vu khống.
Trong trường hợp này, con trai chị có hành vi hành hung người khác, gây tỉ lệ thương tích 36% là tình tiết định khung nên trường hợp này có thể bị truy cứu theo điểm a khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, khung hình phạt 2-6 năm tù. Vì vậy dù có giấy bãi nại con trai chị vẫn bị truy cứu TNHS theo quy định của pháp luật.
Vậy giấy bãi nại trong trường hợp này có được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không?
Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi điểm a, điểm b khoản 6 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;”;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Theo đó, trong trường hợp Tòa án xem xét việc có giấy bãi nại là tình tiết giảm nhẹ thì người phạm tội vẫn có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tòa án phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Luật Đỉnh Phong